Chủ Nhật, 25 tháng 6, 2017

Sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo


I – Học thuyết Nho giáo, quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam:

1- Sơ lược về học thuyết Nho giáo

Trung Quốc là trung tâm văn hoá lớn của nhân loại trong thời kỳ cổ trung đại trãi qua gần bốn mươi thế kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung Quốc bao hàm nội dung vô cùng phong phú với những hệ thống triết học đồ sộ và sâu sắc.

Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc thời cổ đại đó là những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức, thể chế cai trị vốn đã có cơ sở ở Trung Quốc từ thời Tây Chu, đến cuối thời Xuân Thu (TKXI-TKV TCN) thì được Khổng Tử (551-479TCN) và các môn đệ của Ông là Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử ( 313 -238 TCN) hệ thống hóa ổn định lại trong hai bộ kinh điển là Tứ Thư và Ngũ Kinh.

Tứ Thư gồm : Luận ngữ, Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử, bộ sách này do các học trò của Khổng Tử đã tập hợp những lời dạy của thầy mà soạn ra.

Ngũ Kinh[2]gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.

Nội dung bộ sách này phần lớn có từ trước được Khổng Tử gia công san định, hiệu đính và giải thích. Do Khổng Tử có công đầu trong việc phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và truyền bá nên ông được xem là người sáng lập Nho giáo.

Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử được coi là giai đoạn hình thành, giai đoạn này được coi là Nho giáo nguyên thuỷ.

Năm 221TCN Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc và áp dụng chính sách cai trị bằng pháp luật độc đoán khắt nghiệt đã dùng bạo lực tiêu diệt Nho giáo.

Khi Hán Vũ Đế lên ngôi (140-87 TCN), đã thực hiện những chính sách quan trọng, thực hiện theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư, khôi phục Nho giáo và đưa Nho giáo lên địa vị Quốc giáo .

Nho giáo đời Hán (Hán Nho) đã được cải tạo, biến đổi, nhằm mục đích phục vụ vương triều.

Do đó từ đời Hán Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống chi phối văn hoá Trung Quốc và làm nền tảng cho việc xây dựng và bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc suốt hai ngàn  năm lịch sử.

Ba cương lĩnh cơ bản của Nho giáo (Tam cương ) là:

                                         - Đạo vua tôi  (quân thần)

                                          - Đạo cha con (phụ tử)

                                        - Đạo vợ chồng (phu phụ)

Năm phép ứng xử luân lý và đạo đức (Ngũ thường ) Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín

Hạt nhân tư tưởng của triết học Nho giáo là Nhân và Lễ.

Nho giáo coi chữ Nhân là đạo đức hoàn thiện nhất “Nhân dã, Nhân giả” (kẻ có nhân ấy, ấy là con người vậy) “nhân giả ái nhân” (người có nhân thì yêu con người)

Để đạt chữ nhân, Khổng Tử chủ trương dùng lễ nhà Chu (Chu lễ) “Nhất nhật Khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên”(một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ quy về nhân vậy). Nhà Nho đã từ hai chữ nhân và lễ mà suy diễn ra cả một hệ thống triết học chính trị, triết học đạo đức và triết học lịch sử.

Trên cơ sở những tư tưởng triết học ấy đã hình thành mẫu người của Nho giáo là người quân tử mà lý tưởng sống được thể hiện tập trung trong một hệ thống quan niệm về tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ.

Giữa Khổng Tử và các học trò của Ông có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí mâu thuẩn với nhau như  “Quan điểm về thế giới” nhưng nhìn chung có sự thống nhất.  Sự thống nhất đó thể hiện ở hệ thống quan điểm về đạo đức luân lý, chính trị - xã hội, trong đó có sự thống nhất về các giá trị đạo đức, các mối quan hệ con người (ngũ luân), trật tự đẳng cấp xã hội (chủ trương chính sách), sự tất yếu của chính quyền.

Trong triết học của Nho giáo với nội dung đạo đức, luân lý phong phú, thống nhất với nhau và thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đây có lẽ là thành quả rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh và có nhiều đóng góp hữu ích vào việc hoàn thiện và làm phong phú kho tàng lý luận giáo dục đạo đức của nhân loại.

Do hạn chế về mặt lịch sử, triết học Khổng Tử chứa đựng các mâu thuẩn giằng co, đan xen giữa những yếu tố duy vật, vô thần với những yếu tố duy tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng giằng xé của Ông trước biến chuyển của thời cuộc. Tính không nhất quán ấy là cơ sở để các thế hệ sau khai thác, bóp méo theo khuynh hướng duy tâm, tôn giáo thần bí. Về mặt chính trị xã hội, Ông dừng lại trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, không chú ý đến lĩnh vực sản xuất kinh tế và nhu cầu của con người là cơ sở để phát triển của xã hội.

Tư tưởng Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí, nhưng với tư tưởng dân quyền, “nhân chính”, “bảo dân”… có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã hội đương thời.

Tư tưởng của Tuân Tử có quan điểm duy vật về thế giới, nhưng khi lý giải về những vấn đề xã hội có nhiều yếu tố duy tâm, thiếu khách quan khoa học vì liên hệ mật thiết với giai cấp địa chủ mới và cung cấp cho giai cấp này căn cứ lý luận Với học thuyết “Chính danh định mệnh” làm cho con người chấp nhận sự tồn tại lâu dài của chế độ phong kiến, là nguyên nhân của sự trì trệ, chậm phát triển của các nước phuơng Đông.

Quan hệ của con người trong Tam cương có tính phiến diện. Mặc dù Nho giáo có nói đến nghĩa vụ và cách đối xử của hai bên, nhưng thực tế thì trước sau chỉ lên án những kẻ làm tôi, làm con, làm vợ mà thôi. Thực tế đó là mối quan hệ độc đoán một chiều. Hơn nữa, quy toàn bộ quan hệ xã hội của con người vào Tam cương, Ngũ thường là không đủ, Đặc biệt Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã quy định trói buộc người phụ nữ vào người đàn ông (coi trọng nam khinh nữ).

2. Quá trình du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo trong truyền thống văn hoá Việt Nam :

 °Định nghĩa văn hóa :

Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa với nhiều phạm vi khác nhau trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử (văn hóa Đông Sơn).

Định nghĩa văn hóa trong các từ điển hầu hết mở đầu bằng câu : “Văn hóa là tập hợp của các giá trị…” ủy ban UNESCO của liên hợp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục, tức đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hóa, và đã định nghĩa văn hóa như sau : “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm … Khắc họa lên bản sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng …”

Theo Triết học Macxít thì : “Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội mà loài người đạt được, bao gồm quan hệ con người với tự nhiên và xã hội, cả sự phát triển sáng tạo và khả năng của cá nhân”.

Phó giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm đã tổng kết và đưa ra định nghĩa văn hóa như sau : “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.

Định nghĩa vừa nêu trên có dụng  ý chỉ ra bốn đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa đó là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh.

Văn hóa còn đặc trưng cho nhận thức và hành vi của con người trong những lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, bao gồm : Văn hóa lao động, văn hóa nghệ thuật, văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử …

Văn hóa là một yếu tố nằm trong thượng tầng kiến trúc xã hội. Có thể chia văn hóa thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tương ứng với hai dạng sản xuất cơ bản đó là : Sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.

Ta thấy khái niệm văn hóa có mặt trong mọi phạm vi xã hội và gắn liền với một xã hội, một dân tộc, một cộng đồng và một cá thể trong từng thời  điểm lịch sử nhất định. Văn hóa là một nhân tố chủ quan của con người tác động trở lại quá trình phát triển khách quan của lịch sử. Ngày nay nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng, nhất là trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

°Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo việt nam :

•Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và đã có vai trò đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của đất nước và đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời nó với truyền thống Việt Nam.

 • Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ công nguyên. Nhưng Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Có thể nói rằng suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam.

• Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường Nho…

• Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở nước ta, đó là học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn An đỗ thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo được khá đông học trò. Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. (Không cứ gì ở nơi nông thôn, ngay ở chốn triều đình, các tập tục, lề lối của khuôn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta. Một lần có người đề nghị cải tổ triều đình theo khuôn mẫu Phương Bắc đã bị vua Trần cự tuyệt và nói rằng ta có cách của ta).

•Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã dẫn đến việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị độc tôn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều đại phong kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo một lần nữa khẳng định để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa phương Tây.

II - Sự tiếp thu Nho giáo trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam :

 Nét độc đáo của văn hoá Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của mình.

Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước.

Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho) làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính và giáo dục.

Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.


Chữ Nhân, Lễ ,trí, dũng .

Xin nhắc lại đôi nét về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chử Nhân chính là lòng thương người, là cách sống đối với mình, đối với người:

“Mình muốn lập thân thì cũng giúp cho người khác lập thân; Mình muốn thành đạt thì cũng giúp cho người thành đạt, những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người” (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…    

Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta.

Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người ,mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ôngbà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện  tốt đẹp của chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.

Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí, Tín,Dũng…

Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ.Theo Khổng Tử Lễ chính là những quy phạm, những nguyên tắc đạo đức của nhà Chu: Vua cho ra vua, tôi cho tôi, cha cho ra cha, con cho ra con…phải dùng lễ để khôi phục trật tự, phép tắc luân lý xã, khiến mọi người phải trở về đạo và nhân, trở thành chính danh.. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân.

Người muốn đạt được đức Nhân, theo Khổng Tử, phải là người có Trí và Dũng.

Nhờ có Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết  đạo lý,xét đoán được sự vịêc, phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ Nhân,có trí thôi chưa đủ mà cần phải có dũng,dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý.Người Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một cách cao minh,có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người đời gặp phải hoạn nạn…” Ngưới Nhân có Dũng mới làm chủ được mình,mới quả cảm xả thân vì Nhân Nghĩa mới có thể “Lập thân” và “ Đạt Nhân”;Khi gặp cơn thiếu thốn,cực khổ không nao núng làm mất nhân cách của mình;khi đầy đủ, sung túc không ngã nghiêng xa rời đạo lý hơn người Nhân có Dũng sẽ sẵn sàng “Vì Nhân mà sát thân ,chứ không giữ mạng sống của mình mà hại Nhân”.

Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc.

Khổng Tử cho rằng: “Hưng khởi là nhờ thi tạo lập là nhờ lễ, thành đạt là nhờ nhạc…”

Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.

Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào tạo.Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy.

... “Người có tài mà không có đức là người vô dụng. Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.

Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân.

 Mạnh Tử là người kế thừa chính thống học thuyết của Khổng Tử. Trên cơ sở học thuyết về “tính thiện’’ và “Nhân trị”  của Khổng Tử, Ông đề ra tư tưởng “Nhân chính” trong phương pháp trị nước. Đặc biệt Ông có quan niệm mới mẻ và hết sức sâu sắc về vấn đề dân quyền:

                    … “Dân di quý, xã tắc thứ chi quân vi khinh”

Vì theo Ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua thậm chí dân quan trọng hơn vua.Nếu không có sự ủng hộ của dân, thì chế độ sớm muộn sẽ sụp đổ; Vua nếu không hợp lòng dân và ý trời, thì trước sau cũng sẽ bị phế bỏ…

Mạnh Tử cũng chủ trương một chế độ “Bảo dân’’ người cai trị phải lo cái lo của dân,vui cái vui của dân,tạo cho dân của cải ruộng đất, sản nghiệp và cuộc sống bình yên no đủ.Việc vua Nghiêu,Vua Thuấn được thiên hạ là do được lòng dân. Còn Vua Kiệt,Vua Trụ mất thiên hạ là do mất lòng dân.

Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lực lượng xã hội. Chính vì vậy một số học giả coi Mạnh Tử là người có tư tưởng dân chủ.

Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng từng nói :

   … “ Lật thuyền mới biết dân như nước”

Cách đây vài mươi năm, đồng chí Trường Chinh một trong những vị lãnh đạo cao cấp của Đảng cũng đã chỉ ra rằng phải lấy dân làm gốc trong sự nghiệp đổi mới…

 Thuyết chính danh

Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh tiến bộ và tích cực của nó vẫn hết sức cần thiết trong xã hội hiện nay

Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn,dẫn đến xã hội xa rời đạo lý và nhân nghĩa.Ông chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “ chính danh,định phận’’, vì mọi người, mỗi vật sinh ra đều có địa vị, công dung nhất định, ứng với một tên gọi nhất định

   … “Chính danh là làm việc cho ngay thẳng”

    … “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy;

        Trên dưới, vua tôi cha con, trật tự phân minh”

    … “Danh không chính thì ngôn không thuận;

    … Ngôn không thuận thì việc không thành”

Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân,người nào cũng phải trọn trách nhiệm của người ấy,cho đúng với danh vị và chức phận của mình

Nếu mọi người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng,đều tuân thủ đúng với danh vị và chức phận của mình thì xã hội tất sẽ không rối loạn không có nạn tham nhũng,hối lộ, tham ô và không có những tệ nạn tiêu cực, xấu xa hủ bại.

Biết bao thế hệ thầy và trò đã trưởng thành,đã đóng góp tài năng,trí lực,và cả xương máu của mình vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngành giáo dục thực sự đã có công rất lớn trong việc đào tạo ra những thế hệ xứng đáng với dân tộc chúng ta.

Khi chiến tranh chấm dứt đã được khá lâu ,chuyện trường và lớp vẫn chưa được biến đổi nhiều. Đó là do hậu quả của chiến tranh,và còn rất nhiều nguyên nhân quan trọng khác.Nhưng có điều đáng nói là ở chổ ;chữ Tài và chữ Đức trong trường học và trong nhiều lãnh vực…gây nhiều mối lo ngại cho các bậc phụ huynh và cho toàn xã hội. Việc học sinh bỏ học,vô lễ,thậm chí phạm pháp…gần như diễn ra ở rất nhiều nơi…Chữ Lễ đã mất đi giá trị đích thực của nó. Do những chuyện tiêu cực  trong việc dạy và học còn tồn tại khá nhiều, cho nên dẫn đến việc trò chưa đạt chất lựơng.Thầy chưa đạt chuẩn hoá. Đã có một thời gian dài việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cho học sinh là vấn đề hàng đầu mà ngành giáo dục phải quan tâm.

Trong những năm gần đây,vai trò và vị trí của giáo dục đã nhìn nhận đúng với vị trí  đích thực của nó, giáo dục trở thành quốc sách, được Đảng và nhà nuớc và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Sự biến đổi về trường và lớp là điều dễ nhận thấy nhất: Những ngôi trường già nua,những lớp học giột nát…dần đã biến mất,hàng loạt các ngôi trường cao tầng khang trang, sạch đẹp với những tiện nghi đầy đủ,hiện đại đạt chuẩn quốc gia đã mọc lên hầu hết khắp các địa phương trong cả nước. Ai cũng sung sướng và yên tâm khi nhìn thấy con em mình được học tập trong những điều kiện thuận lợi. Như vậy vấn đề trừơng cho ra trường,lớp cho ra lớp là yêu cầu đã đang và sẽ trở thành hiện thực.Việc còn lại phải làm sao để “Thầy cho ra thầy, trò cho ra trò” Việc chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo…trong tất cả các ngành học, cấp học…tuy khó khăn và gian khổ nhưng sẽ dần giải quyết được vấn đề chất lượng.

 Trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn  hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa.

 ° Những điểm tương đồng đã được chú trọng phát huy :

a. Nét tương đồng lớn nhất là sự trọng tình người. Vì trọng tình người vốn là truyền thống lâu đời của nền văn  hóa Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận Nho giáo, người Việt Nam tâm đắc với chữ “Nhân” hơn cả. Nhưng ở đây là lòng thương người “Tấm lòng đã thấu trời xanh. Bán mình là hiếu, cứu người là nhân” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhân nghĩa trong Nho giáo là tình cảm, nghĩa vụ của bầy tôi đối với nhà Vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng ở Nguyễn Trãi và các nhà trí thức Việt Nam thì “Điều cốt yếu ở nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình và đạo quân chính nghĩa nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo” (Bình Ngô Đại Cáo). Đối với người bình dân, “Nhân” còn đồng nghĩa với “Tình” các từ nhân tình, nhân ngãi, nhân duyên trong tiếng Việt là nói về tình yêu trai gái.

b. Nét tương đồng lớn thứ hai là xu hướng ưa ổn định : Truyền thống văn hóa nông nghiệp luôn chỉ muốn có cuộc sống ổn định. Mục đích của Nho giáo nguyên thủy là tạo ra một xã hội ổn định. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, các triều đại phong kiến chỉ dùng Nho giáo để giữ Ngai vàng, còn đối ngoại luôn bành trướng, xâm lăng. Ở Việt Nam, nhu cầu duy trì ổn định không chỉ có ở dân mà ở cả Triều đình, không chỉ ở đối nội mà ở cả đối ngoại. Các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng thực hiện đều mang tính tự vệ.

c. Nét tương đồng thứ ba là xu hướng trọng văn : Trọng văn là truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Nho giáo cũng rất trọng vẻ sỹ, trọng văn, trọng văn hóa. Xã hội Trung Hoa sau thời đại nhà hán có trọng văn, nhưng nhìn chung cũng chỉ ngang hàng quan võ. Còn ở Việt Nam thì trọng văn hơn cả võ. Việt Nam chiến tranh liên miên, thế nhưng người Việt ít ai biết đến các kỳ thi võ mà chỉ lo nấu sử sôi kinh. Nhà cầm quyền Việt Nam nhìn thấy ở Nho giáo một công cụ cai trị, còn người bình dân thì thấy ở Nho giáo một công cụ văn hóa, một con đường làm nên nghề nghiệp lớn :”Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút cái nghiêng anh đồ”.

° Những tư tưởng Việt Nam đã bổ sung, phát triển vào Nho giáo :

Ở Nho giáo, tư tưởng trung quân đóng vai trò quan trọng, còn tư tưởng yêu nước thì không được đề cập đến. Trong khi đó thì ở Việt Nam tinh thần yêu nước Và tinh thần dân tộc, là truyền thống rất mạnh. Người Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân Nho giáo trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có, khiến có cái trung quân bị biến đổi. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa Vua với đất nước, thì đất nước, dân tộc là cái quyết định. Lê Hoàn thay nhà Đinh; Lý Công Uẩn thay nhà Lý … Khi triều đại cũ không còn đủ năng lực để lãnh đạo đất nước. Nên đều được quân dân ủng hộ. Nguyễn Trãi theo Lê Lợi và không theo con cháu nhà Trần, Ngô Thời Nhậm theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê; các nhà Nho yêu nước cuối thế kỷ XIV từ Trương Định trở đi không theo triều đình nhà Nguyễn đầu hàng giặc, mà tiến hành khởi nghĩa chống giặc (và chống triều đình) đều vì đặt nước trên Vua.

Truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp ở nước ta đã làm “mềm” đi sự độc tài hà khắc của nhà nước Hán Nho. (Thật sự Nho giáo nguyên thủy cũng có yếu tố dân chủ, nhưng đến Hán Nho đã bị loại trừ hẳn.

Tâm lý khinh rẻ nghề buôn là sản phẩm truyền thống của văn hóa nông nghiệp, của tính cộng đồng và tính tự trị. Nó đã bám rễ vào mọi người, khiến cho nghề buôn trong lịch sử Việt Nam không thể phát triển được, nó còn được khái quát thành đường lối trọng nông ức thương (trong Nho giáo cũng có tư tưởng xem nhẹ nghề buôn, nhưng đó chỉ là sản phẩm của quan điểm coi trọng “đạo” và “đạo đức”. Thật ra Khổng Tử cũng khuyến khích làm giàu nếu không trái lễ. Mạnh Tử cũng đã từng bàn đến các vấn đề trao đổi hàng hóa, giá cả, chính sách thu thuế chợ, đường … Chính vì vậy mà ở Trung Hoa, Nho giáo không hề cản trở nghề buôn phát triển), “truyền thống” này, kết hợp với Nho giáo khiến cho Việt Nam nông nghiệp âm tính vốn đã thiên về ổn định, lại càng thêm trì trệ. Đến nay, ta hầu như dứt bỏ được quan niệm khinh rẻ nghề thương nghiệp, nhưng để dứt bỏ hết những hậu quả của nó còn cần phải có thời gian.



\

Bagikan

Jangan lewatkan

Sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo
4/ 5
Oleh

Subscribe via email

Suka dengan artikel di atas? Tambahkan email Anda untuk berlangganan.